Đổi mới cơ chế, chính sách, hoàn thiện khổ pháp lý, phối hợp lực lượng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng. Trước bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường thì nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch càng có ý nghĩa cấp thiết. Bài viết tập trung vào chủ đề về "Đổi mới cơ chế, chính sách, hoàn thiện khổ pháp lý, phối hợp lực lượng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch". Tác giả bài viết hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé trong công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 là dấu mốc lịch sử trọng đại, bước ngoặt quan trọng trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, Từ khi thành lập đến nay, Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tiến hành công cuộc đổi mới và thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn phải đối mặt với nhiều âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (tháng 10 năm 1930), Đảng ta chỉ rõ: “Giải thích cho công nhân mục đích và đường lối của Đảng Cộng sản trong các vấn đề liên quan đến cuộc sống của công nhân và thái độ đối với các sự kiện lớn diễn ra trong nước. Giải thích cho họ rằng, Đảng Cộng sản là Đảng của họ, vì vậy họ cần phải bảo vệ Đảng".

Trong Báo cáo về việc sửa đổi Điều lệ Đảng, Đại hội III năm 1960, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam nhấn mạnh: “Bất cứ trong tình hình nào, nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi đảng viên là phải bảo vệ Đảng, bảo vệ vai trò lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng, tỉnh táo đề phòng và kiên quyết đấu tranh chống mọi mưu đồ đả kích hoặc làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng bất kỳ trên lĩnh vực nào, và núp dưới hình thức nào”.

Đổi mới cơ chế, chính sách, hoàn thiện khổ pháp lý, phối hợp lực lượng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Ảnh: TTXVN

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ trọng yếu, xuyên suốt, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Kế thừa và phát triển quan điểm của Người, Đảng ta khẳng định cách mạng Việt Nam phải luôn: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tiếp tục nghiên cứu phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam”[1]. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác tư tưởng, coi “công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất”. Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Đây là học thuyết, là chủ nghĩa duy nhất từ trước đến nay quan tâm đến vận mệnh của các dân tộc bị áp bức, gắn cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, phù hợp với khát vọng của dân tộc ta. Do đó, “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ hệ tư tưởng lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin: “Chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi đảng viên đều phải nghiên cứu”[1].

Đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin cũng là bảo vệ đường lối chính trị của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, là yêu cầu tất yếu của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.

Từ khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, công tác này được triển khai ngày càng bài bản, thống nhất, đồng bộ, toàn diện, quyết liệt, đi vào chiều sâu. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”[2].

Năm 2022, cuốn sách "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận được sự đánh giá cao, hưởng ứng tích cực của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, các tầng lớp nhân dân trong nước cũng như bạn bè, các chính đảng, chính trị gia và dư luận quốc tế. Cuốn sách trở thành tài liệu hết sức giá trị, phục vụ việc học tập, giáo dục lý luận chính trị, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Như vậy, cuộc đấu tranh lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được Đảng ta quan tâm từ rất sớm, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, đặc biệt là qua 05 năm thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, chuyển biến tích cực”[2].

Chủ trương về đổi mới cơ chế, chính sách, hoàn thiện khổ pháp lý, phối hợp lực lượng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Khi đánh giá nguyên nhân về phương diện cơ chế, chính sách, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ rõ: “Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời... Cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở. Thiếu cơ chế để xử lý, thay thế kịp thời những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu về năng lực, giảm sút uy tín, trì trệ trong công tác... Một số cơ chế, chính sách trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chưa công bằng; chính sách tiền lương, nhà ở chưa tạo được động lực cống hiến cho cán bộ, công chức”[4].

Xuất phát từ vai trò của cơ chế, chính sách tác động tới nhận thức và hành vi của tổ chức và cá nhân; từ sự bất cập của cơ chế, chính sách trong giai đoạn chuyển đổi mà tàn dư của cái cũ còn ảnh hưởng nặng nề và cái mới đang định hình chưa đầy đủ; từ mối quan hệ giữa đổi mới cơ chế, chính sách với thực hiện các giải pháp tổng thể; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã xác định đổi mới cơ chế, chính sách là một trong những nhóm giải pháp quan trọng nhằm tạo sự chuyển biến rõ rệt trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Thứ nhất, tập trung xây dựng cơ chế, pháp luật để kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả theo nguyên tắc: quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trước mắt, rà soát hệ thống các văn bản luật liên quan đến thẩm quyền, trách nhiệm, chế tài xử lý vi phạm của các cơ quan nhà nước và người có chức, có quyền (cả đương chức và nghỉ hưu) để kiểm soát quyền lực. Xây dựng cơ chế theo hướng tăng tính tự chủ, phân cấp, phân quyền, làm rõ trách nhiệm Trung ương và địa phương, tập thể và cá nhân, quản lý ngành và lãnh thổ, quản lý nhà nước với quản lý sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ công,... để góp phần xóa bỏ tiêu cực phát sinh từ cơ chế “xin - cho”. Bảo đảm nguyên tắc có quyền thì phải có trách nhiệm, dùng quyền thì phải chịu trách nhiệm, lạm quyền thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm.

Thứ hai, rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, hạn chế môi trường cho tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, “lợi ích nhóm”. Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ rõ những lĩnh vực cần đặc biệt quan tâm và tập trung chỉ đạo quyết liệt để đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, điều hành nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, tham nhũng là: phân bổ, cấp phát và sử dụng ngân sách, tài sản công, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; quản lý vốn đầu tư của Nhà nước; quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản; quản lý tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan; phân bổ, quản lý và sử dụng biên chế.

Thứ ba, kiên quyết thực hiện đúng mục tiêu, có hiệu quả việc sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế gắn với cải cách chế độ công vụ, cơ cấu lại độ ngũ cán bộ, công chức, viên chức và đổi mới chính sách tiền lương, nhà ở. Sắp xếp, tinh giản bộ máy, biên chế theo hướng nhất thể hóa những đầu mối trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ được phân tán ở những cơ quan khác nhau của hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17/4/2015, của Ban Chấp hành Trung ương, về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Thứ tư, đẩy mạnh xã hội hóa, tách hoạt động cung ứng dịch vụ công và hoạt động quản lý sản xuất, kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, khắc phục tình trạng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, tiêu cực của cán bộ, công chức. Xã hội hóa các dịch vụ công để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước một cách có hiệu quả. Đây là một giải pháp hữu hiệu để loại trừ tình trạng tham nhũng, tiêu cực, sách nhiễu đối với doanh nghiệp và người dân, đồng thời rút ngắn thời gian, tối ưu hóa quy trình giải quyết các thủ tục hành chính, tiết kiệm các nguồn lực của Nhà nước. Việc tách hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước khỏi chức năng quản lý nhà nước của bộ chủ quản nhằm giúp các cơ quan quản lý nhà nước có điều kiện tập trung vào xây dựng quy hoạch, kế hoạch, hành lang pháp lý, hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật và kiểm tra thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, hạn chế tiêu cực phát sinh từ sự can thiệp của cơ quan hành chính nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Thứ năm, đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng; rà soát, sửa đổi, hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên. Cải cách hành chính trong Đảng tập trung vào việc cải cách thủ tục, quy trình xây dựng và ban hành các nghị quyết, quy chế, chương trình, kế hoạch, đề án; kiện toàn tổ chức, sắp xếp, hoàn thiện bộ máy các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; bổ sung, sửa đổi những quy định hành chính trong Đảng, như quy trình công tác, lề lối làm việc,... cho phù hợp với tình hình hiện nay để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, tạo sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Thứ sáu, hoàn thiện quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; bảo đảm sự trong sạch về chính trị trong nội bộ, trước hết là cán bộ cấp chiến lược. Cùng với bảo vệ chính trị qua lý lịch đảng viên, cần phải chú trọng quản lý chính trị bản thân trong từng bước đi, trong suốt quá trình trưởng thành, trong từng giai đoạn và từng công việc cụ thể. Các tổ chức đảng phải nắm chắc diễn biến tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên và giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện nay; chủ động phát hiện những dấu hiệu suy thoái để kịp thời có các biện pháp phù hợp, tránh để xảy ra tình trạng “chuyện đã rồi” vừa mất mát cán bộ vừa tổn hại đến tổ chức.

Thực trạng và giải pháp về đổi mới cơ chế, chính sách, hoàn thiện khung khổ pháp lý, phối hợp lực lượng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong ngành Công Thương

Thực trạng cơ chế, chính sách, hoàn thiện khung khổ pháp lý, phối hợp lực lượng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong ngành Công Thương

Báo cáo tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2023 và triển khai nhiệm vụ năm 2024 khẳng định: Công tác hoàn thiện thể chế, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, lập, trình phê duyệt và triển khai các chiến lược, quy hoạch, Đề án được tập trung thực hiện. Các mặt công tác khác như tổ chức cán bộ; sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp; bảo đảm an toàn môi trường công nghiệp; thanh tra; phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế pháp luật đều được thực hiện một cách quyết liệt, thực chất và đồng bộ.... Các chủ trương, định hướng lớn của Trung ương và của Chính phủ đều được cụ thể hóa bằng các chương trình hành động để thống nhất chỉ đạo và tổ chức triển khai hiệu quả trong toàn ngành.

Năm 2023, Bộ Công Thương đã tham mưu, xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ban hành toàn bộ 04 Quy hoạch ngành quốc gia trong lĩnh vực năng lượng, khoáng sản. Đây là kết quả đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của các ngành năng lượng, khai thác, chế biến khoáng sản quốc gia và đối với cả nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với yêu cầu bảo đảm quốc phòng an ninh, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Đến nay, Bộ Công Thương đã trình Thủ tướng Chính phủ các Kế hoạch thực hiện các Quy hoạch gồm Quy hoạch điện VIII, Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia và Quy hoạch thăm dò, khai thác chế biến khoáng sản. Dự thảo Kế hoạch thực hiện Quy hoạch hạ tầng dự trữ xăng dầu khí đốt quốc gia cũng đã hoàn thiện để trình Thủ tướng Chính phủ.

Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tạo cơ sở chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh, tạo lập động lực tăng trưởng mới gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

Sau quá trình nghiên cứu, rà soát, tổng hợp các ý kiến khác nhauNghị định số 80/2023/NĐ-CP của Chính phủ: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2021/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2021 và Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 03 tháng 9 năm 2014 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu được phê duyệt với nhiều điểm mới, tích cực nhằm giải quyết kịp thời những tồn tại bất cập của cơ chế quản lý hiện nay, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng và hài hòa lợi ích giữa các bên sử dụng và kinh doanh xăng dầu.

Bộ cũng khẩn trương nghiên cứu, trình Chính phủ xem xét, ban hành các quy định về cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA), hoàn thiện quy định về phương án cải tiến biểu giá bán lẻ điện, cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân và nhiều quy định khác trong lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ.

Công tác quản lý, đảm bảo trật tự thị trường, phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên thị trường nội địa tiếp tục được củng cố, đạt nhiều kết quả tích cực. Tiếp tục kiểm tra và xử lý nghiêm theo quy định nhiều vụ việc kinh doanh hàng hóa nhập lậu lớn, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, chất lượng và giá sản phẩm, an toàn thực phẩm… Trong năm 2023, lực lượng QLTT đã kiểm tra 71.456 vụ (giảm 2% so với cùng kỳ năm 2022), phát hiện, xử lý 51.884 vụ vi phạm (tăng 17% so với cùng kỳ năm 2022), thu nộp NSNN trên 484 tỷ đồng (tăng 36% so với cùng kỳ năm 2022); chuyển cơ quan điều tra 172 vụ có dấu hiệu hình sự (tăng 35% so với cùng kỳ năm 2022)[3].

Công tác quản lý nhà nước về phòng vệ thương mại, chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ được triển khai đồng bộ, toàn diện, góp phần thực hiện chủ trương tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, đảm bảo phát triển các ngành sản xuất trong nước. Năm 2023, đã phối hợp với các ngành sản xuất trong nước xử lý 27 vụ việc phòng vệ thương mại của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của nước ta, bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất và xuất khẩu.

Công tác hội nhập kinh tế quốc tế được tăng cường, đã hoàn thành hiệu quả, đúng mục tiêu và kế hoạch đề ra; cân bằng, đảm bảo lợi ích của Việt Nam trong quá trình triển khai các cam kết quốc tế, đồng thời ứng phó kịp thời, phù hợp trước những biến động nhanh chóng của tình hình kinh tế - chính trị toàn cầu. Công tác FTA tiếp tục được tăng cường, đã chủ trì, đôn đốc các Bộ, ngành có liên quan về việc xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để thực thi các Hiệp định CPTPP, EVFTA và UKVFTA. Trong năm 2023, đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức đàm phán, xây dựng và báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Israel (VIFTA) (hiện nay đang hoàn thiện hồ sơ trình Chính phủ phê duyệt Hiệp định); đồng thời, đã chủ trì tham gia một số phiên đàm phán đối với Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện (CEPA) giữa Việt Nam (FTA) và Các Tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất (UAE).

Công tác xúc tiến thương mại được đổi mới; phát huy sáng kiến tổ chức công tác giao ban hàng tháng xúc tiến thương mại của hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp và các đơn vị của Bộ Công Thương, các Bộ, ngành liên quan nhằm cung cấp thông tin kịp thời về thị trường, những chính sách, quy định mới của các thị trường và các khuyến nghị kịp thời cho các doanh nghiệp. Với sự đổi mới này, trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của hệ thống Thương vụ được nâng cao hơn trước rõ rệt.

Công tác quản lý cụm công nghiệp và khuyến công quốc gia được triển khai đồng bộ, hiệu quả; các hoạt động phát triển sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu, kết nối giao thương tại các địa phương được đẩy mạnh, góp phần phát triển công nghiệp và thương mại tại các địa phương.

Công tác khoa học - công nghệ được chú trọng, các chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia, trọng điểm cấp Bộ nhằm cụ thể hóa các chủ trương, định hướng lớn của Đảng đã được xây dựng và thực thi hiệu quả.

Bên cạnh những kết quả tích cực đó, Báo cáo tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2023 cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế, như:

- Công tác cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách hành chính tuy đã được quan tâm nhưng chuyển biến còn chậm;

- Sản xuất công nghiệp phục hồi chậm, các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, chi phí đầu vào, chi phí vốn, chi phí tuân thủ còn cao;

- Quy mô xuất khẩu chưa phục hồi so với năm trước, mức độ phụ thuộc vào khu vực FDI trong xuất khẩu vẫn còn lớn; Tăng trưởng thương mại nội địa tuy đạt cao nhưng chưa bằng mức tăng trưởng các năm trước khi xảy ra dịch Covid -19;

- Công tác theo dõi, đánh giá và triển khai thực thi các cam kết hội nhập đã có sự chủ động, đổi mới phương thức thực hiện song vẫn còn những hạn chế;

- Công tác nghiên cứu khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu tái cơ cấu và phát triển ngành theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh.

Giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách, hoàn thiện khổ pháp lý, phối hợp lực lượng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong ngành Công Thương

Thứ nhất, đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền nhằm phân định rõ nhiệm vụ và quyền hạn, thẩm quyền và trách nhiệm giữa Bộ với chính quyền địa phương, giữa các đơn vị trong Bộ, gắn với hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ thống nhất, kịp thời, khả thi, ổn định, công khai, minh bạch, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm, bảo đảm phát huy tính chủ động, sáng tạo; đồng thời, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực Nhà nước chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, của pháp luật.

Thứ hai, rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc, hình thành khung khổ pháp lý, thể chế nhằm phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực, tạo động lực phát triển theo hướng hiện đại, hội nhập và bền vững. Trong thời gian tới, cần tập trung xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về: Luật Điện lực (sửa đổi); Luật Công nghiệp trọng điểm; Luật Hóa chất (sửa đổi)…Cùng với đó là sửa đổi, bổ sung, thay thế nghị định, thông tư, quyết định, chỉ thị ở nhiều lĩnh vực. Các văn bản này góp phần hoàn thiện khung khổ pháp lý cho công tác quản lý nhà nước cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Thứ ba, chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng; tổ chức quán triệt sâu sắc các chủ trương, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến ngành Công Thương cho cán bộ, viên chức của các đơn vị. Quan tâm xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế (như cấp ủy, tổ chức đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội); đề cao trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu; giữ gìn đoàn kết, thống nhất và phát huy tinh thần tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, tập thể lãnh đạo, nhất là người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, góp phần cùng toàn ngành Công Thương thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước giao.

Thứ tư, rà soát, xây dựng định hướng, mục tiêu phát triển của các đơn vị và đổi mới sáng tạo ngành Công Thương mới được phê duyệt, trong đó cần cụ thể hóa kế hoạch triển khai trong từng năm, từng giai đoạn, bảo đảm phù hợp với định hướng phát triển và yêu cầu tái cơ cấu ngành. Tập trung thực hiện tái cơ cấu tổ chức, bộ máy hoạt động, bảo đảm tinh gọn, chuyên nghiệp, hệ thống quản trị hiện đại để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động; trong đó, cần tập trung vào những giá trị cốt lõi, phát huy thế mạnh đặc thù của từng đơn vị.

Thứ năm, rà soát, ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp, trong đó, nâng cao năng lực độc lập, tự chủ của nền sản xuất Việt Nam theo hướng chú trọng nâng cao tự chủ về nguyên liệu, công nghệ, sản xuất, tăng cường năng lực sáng tạo và thiết kế. Đồng thời, phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều công nghệ, có giá trị gia tăng cao và các ngành công nghiệp phát thải carbon thấp; khuyến khích đủ mạnh để phát triển những lĩnh vực ưu tiên của các ngành công nghiệp nền tảng; phát triển hệ sinh thái công nghiệp năng lượng, hydrogen, amoniac xanh, hệ sinh thái công nghiệp hàng hải và đường sắt tốc độ cao..

Thứ sáu, rà soát các giải pháp nhằm bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia; ban hành Kế hoạch vận hành hệ thống điện quốc gia; khẩn trương hoàn thiện và trình Chính phủ xem xét ban hành cơ chế chính sách khuyến khích phát triển điện mặt trời áp mái nhà dân, công sở và khu công nghiệp; cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện từ năng lượng tái tạo với khách hàng sử dụng điện lớn. Triển khai đồng bộ, hiệu quả phát triển các ngành điện, dầu khí, than bền vững, giữ vững an ninh năng lượng quốc gia; thực hiện chuyển dịch cơ cấu năng lượng, giảm thiểu phát thải carbon gắn với phát triển năng lượng sạch. Đẩy mạnh, tạo chuyển biến tích cực hơn trong thực hiện cơ cấu lại ngành Công Thương, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, tính tự chủ, khả năng thích ứng của nền kinh tế.

Thứ bảy, tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy vai trò của hệ thống cơ quan Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài trong công tác hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do để đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng và đẩy mạnh xuất khẩu. Chú trọng đổi mới công tác xúc tiến thương mại, kết hợp chặt chẽ giữa thương mại truyền thống với hiện đại, thương mại điện tử, kinh tế số nhằm khai thác hiệu quả thị trường nội địa còn nhiều tiềm năng. Theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả, thị trường các mặt hàng thiết yếu để điều hành phù hợp, hiệu quả; tăng cường quản lý thị trường và nâng cao năng lực phòng vệ thương mại, bảo vệ sản xuất và lợi ích người tiêu dùng, phù hợp với các cam kết quốc tế.

Thứ tám, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động của ngành, tạo môi trường số an toàn, tiện ích, phục vụ tối đa nhu cầu sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành triển khai thực hiện chuyển đổi số. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền cho đoàn viên, người lao động các cơ quan về mua sắm trực tuyến tại các sàn thương mại điện tử Việt Nam. Hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật; phát triển các hệ thống nền tảng; xây dựng cơ sở dữ liệu; phát triển các ứng dụng, dịch vụ; bảo đảm an toàn thông tin. Phát triển nguồn nhân lực công nghệ số. Áp dụng, khai thác có hiệu quả các nền tảng số dùng chung do Trung ương và địa phương triển khai. Duy trì và nâng cao chất lượng cấp dịch vụ công trực tuyến tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp có nhu cầu giải quyết thủ tục hành chính nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả. Nỗ lực triển khai các chương trình đào tạo, tập huấn nâng cao kỹ năng lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan và các đơn vị trực thuộc, làm lực lượng nòng cốt để lan tỏa, thúc đẩy chuyển đổi số./.

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII,Nxb CTQG-ST, tr.94.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, , tập II, Nxb CTQG-ST, tr.234.

3. Tạp chí nhà nước (2024), Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay, https://tcnn.vn/news/detail/63618/Van-dung-quan-diem-cua-Chu-tich-Ho-Chi-Minh-ve-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-Dang-de-dau-tranh-phan-bac-cac-quan-diem-sai-trai-thu-dich-hien-nay.html.

4. Đoàn Minh Huấn (2017), Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?dDocName=MOFUCM099569.

[1] https://tcnn.vn/news/detail/63618/Van-dung-quan-diem-cua-Chu-tich-Ho-Chi-Minh-ve-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-Dang-de-dau-tranh-phan-bac-cac-quan-diem-sai-trai-thu-dich-hien-nay.html

[2] http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-bat/item/3636-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang-dau-tranh-phan-bac-cac-quan-diem-sai-trai-thu-dich-theo-tinh-than-dai-hoi-xiii-cua-dang.html

[3] https://dangcongsan.vn/kinh-te/nganh-cong-thuong-dong-gop-tich-cuc-vao-phuc-hoi-nen-kinh-te-655999.html

Cùng chuyên mục

Tin khác

Đại tướng Lương Cường giữ chức vụ Thường trực Ban Bí thư

Đại tướng Lương Cường giữ chức vụ Thường trực Ban Bí thư

Bộ Chính trị báo cáo Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc Bộ Chính trị đã quyết định phân công đồng chí Đại tướng Lương Cường, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia Ban Bí thư và giữ chức vụ Thường trực Ban Bí thư.
Hội nghị Trung ương 9: Có ý nghĩa rất quan trọng trong chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng

Hội nghị Trung ương 9: Có ý nghĩa rất quan trọng trong chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, nội dung chương trình Hội nghị Trung ương lần này tuy không nhiều đầu việc, nhưng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng và chỉ đạo chuẩn bị Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng.
Khẩn trương, nghiêm túc, trách nhiệm cao, đảm bảo tốt nhất cho kỳ họp Quốc hội tới

Khẩn trương, nghiêm túc, trách nhiệm cao, đảm bảo tốt nhất cho kỳ họp Quốc hội tới

Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị các cơ quan hữu quan khẩn trương tiếp thu, hoàn chỉnh các báo cáo, tờ trình, đảm bảo chất lượng cao nhất các nội dung để trình Quốc hội, tuyệt đối không để xảy ra các sơ suất không cần thiết.
Tháng 5 nhớ ngày sinh nhật Bác

Tháng 5 nhớ ngày sinh nhật Bác

Ngày 19/5/1890, cứ vào dịp sinh nhật Bác, đồng bào, đồng chí và bạn bè quốc tế lại gửi tới Người những tình cảm sâu nặng và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5

Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5

Ngày 19/5 là ngày ghi dấu nhiều sự kiện đặc biệt đối với lịch sử đất nước và dân tộc. Đó là ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân Việt Nam, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới.
Kỷ luật Bộ trưởng, nguyên Bộ trưởng Lao động-Thương binh và Xã hội

Kỷ luật Bộ trưởng, nguyên Bộ trưởng Lao động-Thương binh và Xã hội

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký các Quyết định kỷ luật Bộ trưởng, nguyên Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, thi hành kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm, khuyết điểm

Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, thi hành kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm, khuyết điểm

Ngày 14/5, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã xem xét, thi hành kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm, khuyết điểm.
Khai mạc Phiên họp thứ 33 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Khai mạc Phiên họp thứ 33 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Sáng 13/5, tại Nhà Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khai mạc phiên họp lần thứ 33. Diễn ra trong 3 ngày, tại Phiên họp này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét, cho ý kiến về nhiều nội dung quan trọng chuẩn bị cho Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, dự kiến diễn ra vào ngày 20/5 tới đây.
Xem thêm

Đọc nhiều / Mới nhận