Thương mại Việt Nam – Malaysia còn nhiều dư địa phát triển
Trong những năm gần đây, tình hình giao thương giữa Việt Nam và Malaysia ghi nhận nhiều biến động đáng chú ý, thể hiện sự gắn kết và tiềm năng hợp tác rộng mở giữa hai quốc gia. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Malaysia trong năm 2021 đạt 12,58 tỷ USD, tăng gần 26% so với năm 2020 cho dù chịu nhiều ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Năm 2022, kim ngạch thương mại song phương tiếp tục tăng 16,8% lên 14,69 tỷ USD, cho thấy sự gia tăng nhu cầu hàng hóa và dịch vụ cũng như những nỗ lực trong việc tăng cường hợp tác kinh tế giữa hai quốc gia.
Thương mại song phương giữa Việt Nam và Malaysia trong năm 2023 đạt 12,67 tỷ USD, giảm 13,8% so với năm trước trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy yếu, sự gián đoạn chuỗi cung ứng và áp lực từ lạm phát. Mặc dù vậy, sự điều chỉnh này không làm giảm đi tầm quan trọng của Malaysia trong chiến lược thương mại của Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn Việt Nam đang mở rộng quan hệ kinh tế với các đối tác trong khu vực.
Trong 8 tháng đầu năm 2024, thương mại song phương giữa Việt Nam và Malaysia tiếp tục ghi nhận tín hiệu tích cực với kim ngạch đạt 9,62 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 1,9% tỷ trọng trên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Cơ cấu thương mại giữa hai nước cũng cho thấy sự đa dạng. Trong đó, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng như máy móc, thiết bị điện tử và nông sản. Ở chiều ngược lại, Việt Nam nhập khẩu từ Malaysia nhiều mặt hàng công nghệ cao và nguyên liệu sản xuất. Điều này không chỉ góp phần vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho Malaysia trong việc tiếp cận thị trường lớn của Việt Nam.
Biểu đồ: Tổng kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam –Malaysia giai đoạn 2020-2023
Đơn vị tính: Tỷ USD
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Mặc dù có những thách thức trong giai đoạn gần đây, nhưng tiềm năng phát triển thương mại giữa Việt Nam và Malaysia vẫn rất lớn. Cả hai nước có thể tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực đầu tư, công nghệ và thương mại, từ đó mở rộng không gian giao thương và khai thác tối đa lợi thế so sánh của mỗi bên. Những nỗ lực này không chỉ giúp ổn định kim ngạch thương mại mà còn tạo ra nền tảng vững chắc cho mối quan hệ đối tác chiến lược trong tương lai.
Về hoạt động xuất khẩu:
Trong tháng 8/2024, tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Malaysia đã ghi nhận những chuyển biến đáng chú ý. Kim ngạch xuất khẩu đạt 434,72 triệu USD, tăng 1,14% so với tháng 7/2024, nhưng giảm 9,26% so với tháng 8/2023. Số liệu này phản ánh những thách thức mà cả hai nền kinh tế đang phải đối mặt, như biến động giá cả hàng hóa và các yếu tố ngoại cảnh khác.
Lũy kế trong 8 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Malaysia đạt 3,48 tỷ USD, tăng 4,27% so với cùng kỳ năm trước. Với kết quả này, hiện Malaysia là thị trường xuất khẩu lớn thứ 20 của Việt Nam trên thế giới và lớn thứ 5 của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á (sau Thái Lan, Indonesia, Phillipin và Campuchia). Sự tăng trưởng này cho thấy Việt Nam vẫn duy trì được vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng của khu vực Đông Nam Á, đồng thời khẳng định mối quan hệ thương mại bền vững giữa hai nước. Những mặt hàng chủ yếu được xuất khẩu sang Malaysia bao gồm điện thoại, máy móc thiết bị, và hàng tiêu dùng, cho thấy sự đa dạng trong cơ cấu sản phẩm.
Cơ cấu chủng loại mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Malaysia cho thấy những tín hiệu khả quan, đặc biệt là ở nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện. Theo thống kê, trong tháng 8/2024, kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này sang Malaysia đạt 81,76 triệu USD, tăng mạnh 73,28% so với tháng trước và tăng 21,66% so với cùng tháng năm trước. Điều này cho thấy nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm công nghệ cao tại Malaysia đang tăng trưởng mạnh mẽ.
Lũy kế 8 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng máy vi tính và linh kiện sang Malaysia đạt 406,33 triệu USD, giảm nhẹ 4,07% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 11,67% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Malaysia. Sự đóng góp này cho thấy tầm quan trọng của nhóm hàng công nghệ trong mối quan hệ thương mại giữa hai nước. Sự suy giảm nhẹ này có thể được lý giải bởi những thách thức toàn cầu, như tình trạng thiếu hụt linh kiện và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các quốc gia khác.
Đứng thứ hai trong danh sách này là sắt thép các loại với kim ngạch xuất khẩu trong tháng 8/2024 là 52,95 triệu USD, tăng 48,77% so với tháng trước và tăng 18,44% so với cùng tháng năm trước. Lũy kế 8 tháng đầu năm, Việt Nam đã xuất khẩu 395,92 triệu USD sắt thép các loại sang Malaysia, tăng 1,15% so với tháng trước, chiếm tỷ trọng 11,37% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Malaysia.
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam sang Malaysia
trong tháng 8/2024 và 8 tháng đầu năm 2024
Tên nhóm/mặt hàng |
Tháng 8/2024 (Triệu USD) |
So với Tháng 7/2024 (%) |
So với Tháng 8/2023 (%) |
8 tháng năm 2024 (Triệu USD) |
So với 8 tháng năm 2023 (%) |
Tỷ trọng 8 tháng năm 2024 (%) |
Tổng KNXK |
434,72 |
1,14 |
-9,26 |
3.480,80 |
4,27 |
100 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện |
81,76 |
73,28 |
21,66 |
406,33 |
-4,07 |
11,67 |
Sắt thép các loại |
52,95 |
48,77 |
18,44 |
395,92 |
1,15 |
11,37 |
Gạo |
31,76 |
-19,59 |
36,88 |
345,94 |
152,93 |
9,94 |
Điện thoại các loại và linh kiện |
26,93 |
-8,25 |
-39,2 |
302,28 |
0,16 |
8,68 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác |
33,32 |
-9,92 |
-0,42 |
271,28 |
6,1 |
7,79 |
Sản phẩm hóa chất |
6,79 |
-51,53 |
-90,8 |
210,52 |
-53,4 |
6,05 |
Phương tiện vận tải và phụ tùng |
14,36 |
-18,97 |
-17,76 |
119,90 |
-18,91 |
3,44 |
Hóa chất |
3,74 |
-83,38 |
-65,9 |
114,83 |
140,6 |
3,30 |
Cà phê |
13,78 |
-12,47 |
139,2 |
108,64 |
118,07 |
3,12 |
Hàng dệt, may |
15,29 |
9,79 |
7,11 |
106,64 |
9,78 |
3,06 |
Gỗ và sản phẩm gỗ |
12,78 |
-13,35 |
-5,23 |
103,44 |
10,1 |
2,97 |
Giày dép các loại |
11,45 |
7,81 |
10 |
77,83 |
13,62 |
2,24 |
Hàng thủy sản |
9,02 |
-23,15 |
-17 |
72,00 |
-10,14 |
2,07 |
Thức ăn gia súc và nguyên liệu |
8,06 |
-18,27 |
-34,81 |
67,42 |
-9,88 |
1,94 |
Giấy và các sản phẩm từ giấy |
6,51 |
-1,58 |
10,19 |
45,97 |
-7,22 |
1,32 |
Kim loại thường khác và sản phẩm |
5,81 |
-5,6 |
58,74 |
42,77 |
14,82 |
1,23 |
Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh |
4,85 |
-4,8 |
-46,37 |
40,73 |
-43,8 |
1,17 |
Sản phẩm từ chất dẻo |
4,39 |
4,28 |
16,62 |
40,67 |
54,56 |
1,17 |
Hàng rau quả |
4,77 |
-5,04 |
15,04 |
37,72 |
5,35 |
1,08 |
Chất dẻo nguyên liệu |
4,67 |
-19,17 |
-1,07 |
37,27 |
30,37 |
1,07 |
Clanhke và xi măng |
5,33 |
43,96 |
-18,97 |
34,34 |
-25,88 |
0,99 |
Phân bón các loại |
5,35 |
-5,39 |
31,96 |
32,61 |
44,95 |
0,94 |
Sản phẩm từ sắt thép |
3,98 |
-16,68 |
43,21 |
29,96 |
16,93 |
0,86 |
Xăng dầu các loại |
10,64 |
247,18 |
403,69 |
27,41 |
41,35 |
0,79 |
Xơ, sợi dệt các loại |
2,33 |
-18,9 |
-52,43 |
21,08 |
-15,97 |
0,61 |
Túi xách, ví,vali, mũ và ô dù |
2,10 |
-6,72 |
16,07 |
16,38 |
32,3 |
0,47 |
Cao su |
4,54 |
-6,93 |
550,78 |
15,93 |
194,35 |
0,46 |
Dây điện và dây cáp điện |
1,91 |
-10,47 |
-13,9 |
12,88 |
-14,19 |
0,37 |
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc |
1,88 |
17,08 |
-6,56 |
12,74 |
-7,74 |
0,37 |
Sản phẩm gốm, sứ |
1,43 |
-23,78 |
-5,36 |
10,34 |
3,14 |
0,30 |
Sản phẩm từ cao su |
1,20 |
-5,57 |
28,33 |
9,09 |
-1,67 |
0,26 |
Dầu thô |
- |
7,92 |
||||
Hạt tiêu |
1,05 |
-16,96 |
90,38 |
7,17 |
47,37 |
|
Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận |
1,62 |
28,49 |
186,59 |
7,02 |
40,98 |
|
Sắn và các sản phẩm từ sắn |
0,29 |
106,86 |
-62,56 |
6,17 |
37,01 |
|
Quặng và khoáng sản khác |
0,09 |
-85,68 |
-93,27 |
5,41 |
42,86 |
|
Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ |
0,54 |
-29,36 |
0,84 |
4,75 |
28,95 |
|
Chè |
0,45 |
-19,07 |
43,09 |
3,02 |
48,7 |
|
Than các loại |
0,03 |
|||||
Hàng hóa khác |
37,02 |
-4,42 |
16,44 |
268,45 |
12,5 |
7,71 |
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Biểu đồ: Nhóm các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất sang thị trường Malaysia trong 8 tháng đầu năm 2024
(ĐVT: Triệu USD)
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Trong khi đó, số liệu thống kê mới nhất từ Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) trong 6 tháng đầu năm 2024 cũng cho thấy, vị trí của Việt Nam trong chuỗi cung ứng hàng hóa cho Malaysia đã có những chuyển biến quan trọng. Việt Nam hiện là nguồn cung hàng hóa lớn thứ 14 của Malaysia, chiếm tỷ trọng 2,2% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Malaysia từ thế giới. Mặc dù tỷ trọng này đã giảm so với mức 2,36% cùng kỳ năm trước, nhưng điều này không làm giảm đi vai trò của Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh thương mại toàn cầu.
Biểu đồ: Các thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của Malaysia trong năm 6 tháng đầu năm 2024 (Việt Nam xếp thứ 14)
Đơn vị tính: %
Nguồn: Tính toán từ số liệu của ITC
Trong danh sách các nguồn cung cấp hàng hóa cho Malaysia, Việt Nam đứng sau các thị trường lớn như Trung Quốc, Singapore, Hoa Kỳ, Đài Loan (Trung Quốc), Nhật Bản, Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan. Sự hiện diện của những đối thủ cạnh tranh này cho thấy thị trường Malaysia rất đa dạng và phong phú, tuy nhiên, Việt Nam vẫn giữ được vị trí nhất định, đặc biệt trong khu vực Đông Nam Á, khi là nguồn cung ứng lớn thứ 4, chỉ sau Singapore, Indonesia và Thái Lan.
Về hoạt động nhập khẩu:
Trong tháng 8 năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Malaysia đạt 680,54 triệu USD, giảm 7,17% so với tháng trước và giảm 14,19% so với cùng tháng năm trước. Sự sụt giảm này có thể do nhiều yếu tố, trong đó có việc điều chỉnh nguồn cung, thay đổi nhu cầu tiêu dùng trong nước, cũng như các vấn đề về chuỗi cung ứng mà nhiều doanh nghiệp đang phải đối mặt.
Lũy kế 8 tháng đầu năm 2024, Việt Nam đã nhập khẩu từ Malaysia tổng cộng 6,14 tỷ USD, tăng 22,42% so với cùng kỳ năm 2023. Điều này cho thấy, mặc dù tháng 8 chứng kiến sự giảm sút, nhưng tổng quan về nhập khẩu từ Malaysia vẫn cho thấy một xu hướng tích cực, cho thấy nhu cầu ổn định từ thị trường Việt Nam đối với hàng hóa từ nước này. Các mặt hàng chủ yếu được nhập khẩu gồm máy móc, thiết bị điện tử và nguyên liệu sản xuất, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp trong nước.
Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Malaysia trong 8 tháng đầu năm 2024 cho thấy sự nổi bật của nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện. Trong tháng 8, kim ngạch nhập khẩu của nhóm hàng này đạt 241,31 triệu USD, không chỉ tăng 17,3% so với tháng trước mà còn tăng mạnh 42,51% so với cùng tháng năm trước. Malaysia đang trở thành một nguồn cung ứng quan trọng cho ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam.
Lũy kế 8 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện từ Malaysia đạt 1,43 tỷ USD, tăng 24,63% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng đáng kể 23,38% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ thị trường này.
Các mặt hàng máy vi tính và linh kiện không chỉ là yếu tố quan trọng trong việc phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa mà còn là nguồn nguyên liệu thiết yếu cho sản xuất các thiết bị điện tử khác, như điện thoại thông minh và đồ gia dụng thông minh. Sự tăng trưởng ổn định trong lĩnh vực này cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam đang từng bước nâng cao vị thế của mình trong ngành công nghiệp điện tử toàn cầu.
Bảng: Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng của Việt Nam từ Malaysia trong tháng 8 năm 2024
Tên nhóm/mặt hàng |
Tháng 8/2024 (Triệu USD) |
So với tháng 7/2024 (%) |
So với tháng 8/2023 (%) |
8 tháng năm 2024 (Triệu USD) |
So với 8 tháng năm 2023 (%) |
Tỷ trọng 8 tháng năm 2024 (%) |
Tổng KNNK |
680,54 |
-7,17 |
-14,19 |
6.140,85 |
22,42 |
100 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện |
241,31 |
17,30 |
42,51 |
1.435,68 |
24,63 |
23,38 |
Xăng dầu các loại |
12,86 |
-85,19 |
-94,42 |
1.367,59 |
34,40 |
22,27 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác |
65,63 |
-22,78 |
5,34 |
448,14 |
13,88 |
7,30 |
Kim loại thường khác |
39,63 |
-17,66 |
5,04 |
371,25 |
41,11 |
6,05 |
Hóa chất |
49,17 |
4 |
80,58 |
357,17 |
31,59 |
5,82 |
Dầu mỡ động, thực vật |
33,97 |
-6,71 |
-29,85 |
306,83 |
12,36 |
5,00 |
Hàng điện gia dụng và linh kiện |
15,51 |
-5,34 |
52,27 |
236,62 |
5,9 |
3,85 |
Chất dẻo nguyên liệu |
42,89 |
43,82 |
21,94 |
227,39 |
9,92 |
3,70 |
Khí đốt hóa lỏng |
10,59 |
15,13 |
51,56 |
177,57 |
258,33 |
2,89 |
Sản phẩm hóa chất |
19,54 |
-4,75 |
11,6 |
148,37 |
12,42 |
2,42 |
Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh |
10,36 |
-27,2 |
42,72 |
83,78 |
80,92 |
1,36 |
Giấy các loại |
14,70 |
23,45 |
169,57 |
81,22 |
53,17 |
1,32 |
Vải các loại |
11,40 |
27,91 |
27,95 |
72,74 |
23,22 |
1,18 |
Sản phẩm từ chất dẻo |
7,81 |
4,59 |
11,98 |
56,94 |
9,99 |
0,93 |
Dây điện và dây cáp điện |
8,49 |
-8,54 |
2,51 |
53,25 |
-2,32 |
0,87 |
Chế phẩm thực phẩm khác |
4,52 |
-45,09 |
-26,84 |
49,00 |
2,96 |
0,80 |
Sữa và sản phẩm sữa |
6,17 |
2,61 |
-0,53 |
40,26 |
4,44 |
0,66 |
Sản phẩm từ sắt thép |
4,50 |
-4,2 |
29,65 |
32,86 |
9,26 |
0,54 |
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc |
5,14 |
7,43 |
31,97 |
29,55 |
5,83 |
0,48 |
Sản phẩm từ cao su |
4,83 |
22,77 |
42,13 |
29,08 |
18,43 |
0,47 |
Cao su |
3,26 |
-40,06 |
104,04 |
22,52 |
144,42 |
0,37 |
Xơ, sợi dệt các loại |
1,95 |
-57,71 |
21,97 |
21,66 |
9,51 |
0,35 |
Sản phẩm khác từ dầu mỏ |
4,61 |
74,77 |
43,73 |
20,08 |
-77,57 |
0,33 |
Sắt thép các loại |
1,15 |
13,61 |
-29,84 |
19,77 |
36,56 |
0,32 |
Sản phẩm từ kim loại thường khác |
3,44 |
29,4 |
68,83 |
19,25 |
-7,84 |
0,31 |
Thức ăn gia súc và nguyên liệu |
2,66 |
-33,85 |
-12,68 |
19,07 |
9,86 |
0,31 |
Phân bón các loại |
0,18 |
-94,64 |
16,64 |
51,26 |
0,27 |
|
Gỗ và sản phẩm gỗ |
3,23 |
23,06 |
65 |
16,10 |
-8,78 |
0,26 |
Linh kiện, phụ tùng ô tô |
2,42 |
12,1 |
42,28 |
15,42 |
34,86 |
0,25 |
Thuốc trừ sâu và nguyên liệu |
2,39 |
195,76 |
-12,58 |
13,54 |
-7,27 |
0,22 |
Hàng thủy sản |
2,13 |
42,64 |
29,63 |
13,13 |
-35,53 |
0,21 |
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày |
1,45 |
1,93 |
-23,28 |
12,61 |
-19,7 |
0,21 |
Quặng và khoáng sản khác |
2,42 |
93,43 |
261,86 |
11,63 |
48,18 |
0,19 |
Sản phẩm từ giấy |
1,26 |
4,56 |
29,46 |
7,60 |
7,57 |
0,12 |
Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh |
1,01 |
3,89 |
30,87 |
7,33 |
34,76 |
0,12 |
Dược phẩm |
0,23 |
-75,24 |
80,14 |
4,93 |
91,65 |
0,08 |
Nguyên phụ liệu thuốc lá |
0,55 |
-8,84 |
-3,1 |
4,06 |
-0,76 |
0,07 |
Than các loại |
0,00 |
2,95 |
1863,66 |
0,05 |
||
Hàng rau quả |
0,29 |
-21,62 |
-15,95 |
2,58 |
-2,32 |
0,04 |
Phương tiện vận tải khác và phụ tùng |
0,07 |
183,42 |
-29,16 |
1,84 |
19,17 |
0,03 |
Hàng hóa khác |
36,82 |
19,76 |
57,1 |
282,85 |
5,03 |
4,61 |
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan
Trong thời gian tới, còn rất nhiều dư địa để đẩy mạnh thương mại song phương giữa Việt Nam và Malaysia, nhất là đặt trong bối cảnh hai bên đều đang nỗ lực tận dụng tốt các cơ hội từ các thỏa thuận thương mại khu vực hai bên cùng tham gia như RCEP, CPTPP. Đây là nền tảng vững chắc để thúc hợp tác thương mại, đầu tư hai nước Việt Nam – Malaysia liên tục phát triển trong tương lai
Về định hướng phát triển của hai nước trong thời gian tới, ngày 7/8/2024, trong khuôn khổ chuyến thăm, làm việc tại Malaysia, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định đã gặp Phó Thủ tướng Malaysia Dato Sri Haji Fadillah bin Haji Yusof. Trong khuôn phổ cuộc gặp gỡ, hai bên kỳ vọng sớm đưa kim ngạch thương mại song phương đạt 18 tỷ USD theo hướng cân bằng; tạo thuận lợi xuất nhập khẩu và hạn chế áp dụng các rào cản thương mại; phấn đấu sớm ký kết thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực Halal thời gian tới.
Đề cập một số lĩnh vực hợp tác cụ thể, Phó Thủ tướng Malaysia cho rằng, hai nước có tiềm năng hợp tác lớn trong lĩnh vực thực phẩm Halal. Cho biết, tiêu chuẩn Halal của Maylaysia được công nhận trên thế giới, Phó Thủ tướng Malaysia đề nghị Việt Nam có một cơ quan đầu mối về thực phẩm Halal, trong đó, có thể tham khảo ngay các tiêu chuẩn, mô hình, quy trình sản xuất thực phẩm Halal của Malaysia; khẳng định, cơ quan xúc tiến thực phẩm Halal Malaysia sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, cử chuyên gia hỗ trợ Việt Nam về lĩnh vực này.
Phó Thủ tướng Malaysia cũng cho rằng, với tiềm năng lớn về phát triển năng lượng xanh của Việt Nam, hai nước có thể tăng cường hợp tác với nhau và hợp tác trong khuôn khổ ASEAN theo mô hình hợp tác của các nước Liên minh châu Âu.
Nhất trí với các đề xuất hợp tác của Phó Thủ tướng Malaysia, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định cho biết, sẽ trao đổi cụ thể với các cơ quan của Việt Nam, trong đó, Đại sứ quán Việt Nam tại Malaysia sẽ là đầu mối tăng cường hợp tác giữa hai nước. Hiện nay, Việt Nam đã cam kết mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế sẽ đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Việt Nam cũng đã ban hành và đang triển khai thực hiện Quy hoạch điện VIII, trong đó tập trung vào phát triển các nguồn năng lượng sạch, giảm ô nhiễm môi trường. Đánh giá cao ý tưởng, đề xuất của Phó Thủ tướng Malaysia về tăng cường hợp tác năng lượng sạch trong khuôn khổ ASEAN, Phó Chủ tịch Quốc hội cũng cho rằng, các nước phát triển hơn trong khu vực cần hỗ trợ các nước trong lĩnh vực này vì một ASEAN hài hòa, thống nhất, đoàn kết và phát triển bền vững.
Theo Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại