Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng trưởng ấn tượng trong 8 tháng năm 2023
Tính chung 8 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 59,69 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu 33,21 tỷ USD, nhập khẩu 26,48 tỷ USD. Tính đến thời điểm này, toàn ngành nông lâm ngư nghiệp xuất siêu 6,73 tỷ USD.
Trong tháng 8/2023, kim ngạch xuất khẩu nhóm các ngành hàng trồng trọt tăng 11,5% so với tháng 8/2022, ước đạt 2,16 tỷ USD; xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi tăng 24% so với tháng 8/2022, ước đạt 50 triệu USD. Xuất khẩu vật tư nông nghiệp đạt 207 triệu USD, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước.
Trong khi đó, xuất khẩu nhóm ngành hàng thủy sản và lâm sản vẫn giảm sâu. Cụ thể, trong tháng 8/2023 so với cùng kỳ, kim ngạch thủy sản đạt 750 triệu USD, giảm 24%; kim ngạch lâm sản đạt 1,19 tỷ USD, giảm 21,5%.
8 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 59,69 tỷ USD |
Với kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 8/2023 ước đạt 4,36 tỷ USD, giảm 6,5% so với tháng 8/2022, đã đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 8 tháng lên 33,21 tỷ USD, giảm 9,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, nhóm thuỷ sản 5,68 tỷ USD, giảm 25,4%; lâm sản 8,95 tỷ USD, giảm 25,1%; đầu vào sản xuất 1,32 tỷ USD, giảm 21,9%. Một số nhóm mặt hàng có giá trị xuất khẩu tăng như: xuất khẩu sản phẩm từ trồng trọt đạt 16,9 tỷ USD, tăng 11,5 %; xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi 325 triệu USD, tăng 26,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Về thị trường xuất khẩu trong 8 tháng, giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản tới các thị trường thuộc khu vực châu Á đạt 16 tỷ USD, tăng 0,2%; châu Mỹ 7,5 tỷ USD, giảm 27,4%; châu Âu 3,7 tỷ USD, giảm 13,8%; châu Phi 681 triệu USD, tăng 11,5%; châu Đại Dương 480 triệu USD, giảm 23,5%.
Trong 8 tháng, giá xuất khẩu bình quân một số nông sản chính giảm: Cao su 1.346 USD/tấn, giảm 19,6%; Chè 1.727 USD/tấn, giảm 2,6%; Hạt điều 5.761 USD/tấn, giảm 3,6%; Hồ tiêu 3.263 USD/tấn, giảm 26,5%; sắn và sản phẩm từ sắn 412 USD/tấn, giảm 6,4%...
Trong khi đó, giá gạo và giá cà phê tăng cao. Giá gạo xuất khẩu bình quân trong 8 tháng đạt 542 USD/tấn, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước. Giá cà phê xuất khẩu bình quân trong 8 tháng đạt 2.455 USD/tấn, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 8 tháng năm 2023 chứng kiến kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng tới 57,5% so với cùng kỳ năm trước, đạt 3,45 tỷ USD. Đặc biệt, xuất khẩu sầu riêng đã lập kỷ lục mới về kim ngạch khi cán mốc 1,2 tỷ USD trong 8 tháng, chiếm 30% trong tổng kim ngạch rau quả.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đánh giá, sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản 8 tháng đầu năm 2023 cơ bản ổn định, gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm; an toàn thực phẩm, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Đồng thời, trong 8 năm 2023, Bộ đã quyết liệt tháo gỡ vướng mắc, mở cửa thị trường cho nông sản Việt, ngay cả đối với các thị trường khó tính; thúc đẩy ký kết các đơn hàng mới; phối hợp đẩy mạnh đàm phán để đa dạng hóa hàng nông sản được xuất khẩu chính ngạch sang nhiều thị trường.
Hình thành, mở rộng, phát triển nhiều mô hình sản xuất nông lâm thủy sản theo chuỗi giá trị ngành hàng, tích hợp đa giá trị. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hợp tác xã nông nghiệp; nhiều trang trại, hộ kinh doanh chuyển đổi thành lập doanh nghiệp mới có quy mô và hiệu quả cao hơn; 37% sản lượng nông lâm thủy sản được sản xuất và tiêu thụ theo các hình thức liên kết chuỗi giá trị gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm. Số xã, huyện đạt chuẩn nông thôn mới tăng, sản phẩm đạt chuẩn OCOP chất lượng cao tiếp tục tăng.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản trong 8 tháng đầu năm vẫn giảm 9,5% so với cùng kỳ năm ngoái do các tháng đầu năm mức giảm sâu. Công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, nhất là ở khâu bảo quản và chế biến sâu, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển mạnh.
Thêm vào đó, hiện nay, các hợp tác xã còn khó khăn trong quản trị minh bạch hoạt động sản xuất, kinh doanh; chưa phát huy tốt vai trò kết nối giữa hộ nông dân và doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp tham gia vào các hợp đồng liên kết tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ít về số lượng, quy mô nhỏ; duy trì và phát triển bền vững các liên kết chuỗi giá trị còn hạn chế.
Thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ tiếp tục theo dõi, nắm bắt tình hình giá cả, nguồn cung các mặt hàng lương thực thực phẩm thiết yếu, báo cáo Tổ điều hành Thị trường trong nước và Ban Chỉ đạo giá của Chính phủ. Phối hợp với các địa phương hỗ trợ kết nối, thúc đẩy chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông sản vào vụ thu hoạch.
Đẩy mạnh phát triển thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Tiếp tục xử lý các vấn đề thị trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu nông sản, thủy sản, đặc biệt là thị trường Trung Quốc, Mỹ, EU, liên minh kinh tế Á - Âu... Tận dụng các FTAs, đặc biệt là Hiệp định CPTPP, EVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản chủ lực, hỗ trợ doanh nghiệp ký kết đơn hàng xuất khẩu mới. Phối hợp hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ở nước ngoài.