Kiểm soát phát thải thuỷ ngân ngành nhiệt điện than Việt Nam
Hội thảo được tổ chức dưới hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến, với sự tham gia của ông TAKAKI, Giám đốc Văn phòng Quản lý Thủy ngân – Bộ Môi trường Nhật Bản; ông MURAKAMI - đại điện JCOAL; ông SAKAMOTO - đại diện Viện nghiên cứu EXRI và các đối tác đến từ Nhật Bản; cùng đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường, đại diện các đơn vị thuộc Bộ Công Thương, đại diện các Tập đoàn EVN, TKV, PVN và các nhà máy nhiệt điện than trên toàn quốc.
Bảo vệ môi trường ngành nhiệt điện than là trọng tâm trong công tác bảo vệ môi trường ngành Công Thương
Phát biểu khai mạc tại Hội thảo, bà Đỗ Phương Dung – Phó Cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (ATMT) cho biết, ngày 08 tháng 9 năm 2020 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch bảo vệ môi trường ngành Công Thương giai đoạn 2020 - 2025, trong đó đã đưa nội dung bảo vệ môi trường ngành nhiệt điện than là trọng tâm trong công tác bảo vệ môi trường ngành Công Thương, hài hòa giữa phát triển, đảm bảo an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường.
Phó Cục trưởng Cục ATMT Đỗ Phương Dung
Triển khai Kế hoạch được giao, Bộ Công Thương Việt Nam đang hướng tới một nền sản xuất giảm phát thải và bảo vệ môi trường nhằm hực hiện các mục tiêu về phát triển bền vững,
Phó Cục trưởng Cục ATMT cho biết, trong khuôn khổ Chương trình hợp tác giữa hai nước, với sự tài trợ của Bộ Môi trường – Nhật Bản, Cục ATMT đã phối hợp với nhóm đối tác Nhật Bản, đại diện là Viện nghiên cứu Exri về Quản lý phát thải Thủy ngân ngành Nhiệt điện than triển khai nhiều hoạt động, bao gồm kiểm kê phát thải Thủy ngân tại một số Nhà máy Nhiệt điện than Việt Nam, chia sẻ kinh nghiệm của hai nước về xây dựng chính sách, công nghệ kiểm soát và giám sát phát thải Thủy ngân …
Đại diện Lãnh đạo Cục ATMT hy vọng, trong khuôn khổ buổi hội thảo Chính sách và công nghệ kiểm soát phát thải thuỷ ngân ngành nhiệt điện than Việt Nam, Cục ATMT cùng JCOAL/EXRI mong muốn các bên, các đại biểu cùng trao đổi, chia sẻ các kinh nghiệm về xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn phát thải Thủy ngân, công nghệ hiện có để kiểm soát phát thải Thủy ngân của Nhật Bản. Đây cũng là cơ hội để các nhà máy nhiệt điện cũng như cơ quan quản lý Việt Nam trao đổi thông tin về bảo vệ môi trường trong ngành nhiệt điện than trong bối cảnh có nhiều thay đổi về quy định pháp luật và hệ thống tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam.
Tăng cường hợp tác để kiểm kê phát thải thủy ngân
Theo bà Vũ Huyền Phương – Phó Trưởng phòng Bảo vệ môi trường, Cục ATMT, hiện Việt Nam có 33 nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động; Tổng công suất lắp đặt thực tế: 27.264 MW; trong đó một số đã vận hành trong nhiều năm: Phả Lại, Ninh Bình; một số công suất nhỏ: Cao Ngạn, Nông Sơn, Na Dương, An Khánh và Nhiều nhà máy hiện đại, công suất lớn đi vào hoạt động thời gian gần đây: Sông Hậu 1, Nghi Sơn 2, Thái Bình 2, Vân Phong 1...
Hiện Việt Nam đã và đang thực hiện công tác kiểm soát phát thải thủy ngân ngành nhiệt điện than. Cụ thể như: Dự án “Giảm phát thải thủy ngân từ hoạt động đốt than trong ngành năng lượng Việt Nam” do Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng năm và Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) triển khai trong năm 2015 - 2016. Dự án đã khảo sát và lấy mẫu tại 08 mỏ than khu vực phía bắc, đưa ra hàm lượng thủy ngân trung bình trong than nguyên liệu; Lấy mẫu và phân tích hàm lượng thủy ngân trong than, tro bay, xỉ đáy, khí thải (pha hơi) tại 3 nhà máy nhiệt điện; tính toán phát thải thủy ngân cho 26 nhà máy nhiệt điện than theo phương pháp của UNEP.
Cục ATMT cũng đang phối hợp với Viện nghiên cứu EXRI, dưới sự tài trợ của Bộ Môi trường Nhật Bản để triển khai Dự án kiểm kê phát thải thủy ngân trong ngành nhiệt điện than. Dự án sẽ lựa chọn, điều tra khảo sát và lấy mẫu theo loại hình công nghệ, than nguyên liệu đầu vào của các nhà máy nhiệt điện than; Tính toán cân bằng thủy ngân trong quá trình đốt tại nhà máy.
Từ thực tế Dự án này, nhóm làm dự án cũng đưa ra ý kiến trao đổi tại hội thảo, theo đó, cần có một chương trình kiểm kê phát thải thủy ngân đầy đủ để xác định hàm lượng, nồng độ thủy ngân, hệ số phát thải theo than nguyên liệu và công nghệ, khả năng đáp ứng theo Quy chuẩn Việt Nam (QCVN) mới về thủy ngân.
Đóng góp ý kiến của doanh nghiệp, Đại diện Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 cho biết, trong công tác bảo vệ môi trường, Nhà máy đã giám sát định kỳ chất lượng nước thải bao gồm nước thải nước thải tại cửa xả, nước thải sau kênh nước FGD (định kỳ 1 tháng/1 lần) nước tại bãi chứa xỉ và nước thải hệ thống xử lý nước thải công nghiệp tập trung (định kỳ 3 tháng/ 1lần), thông số Thủy ngân trong nước thải rất thấp bé hơn nhiều so với giới hạn cho phép; Chất lượng khí thải theo giám sát định kỳ tại ống khói, phân tích nồng độ Hg trong khí thải, kết quả cho thấy nồng độ thủy ngân tại đây rất thấp.
Tại hội thảo, ông Osamu SAKAMOTO - đại diện Viện nghiên cứu EXRI (Nhật Bản) đã chia sẻ những kinh nghiệm kiểm soát phát thải thủy ngân tại Nhật Bản. Nhật Bản cũng đề cao nỗ lực tự nguyện của các cơ sở trong việc kiểm soát phát thải thủy ngân. Cụ thể, cơ sở phát thải một lượng thủy ngân đáng kể và thuộc đối tượng cần kiểm soát phát thải theo quy định tại Pháp lệnh Nội các phải thiết lập tiêu chuẩn phát thải tự nguyện (của riêng cơ sở đó hoặc liên kết với các cơ sở khác); Đo lường nồng độ thủy ngân và lưu hồ sơ kết quả đó, đồng thời, thực hiện các giải pháp cần thiết để kiểm soát phát thải thủy ngân ra môi trường không khí và công khai tình trạng cũng như kết quả đánh giá công tác thực hiện các giải pháp đó.
Tại Nhật Bản, việc kiểm soát phát thải thủy ngân được quy trách nhiệm cụ thể tới địa phương. Chính quyền địa phương nỗ lực để cung cấp thông tin cần thiết nhằm khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các giải pháp cắt giảm phát thải thủy ngân, đồng thời nỗ lực phổ biến kiến thức về các giải pháp kiểm soát phát thải thủy ngân.